Sau 10 năm bị tăng huyết áp đi khắp nơi điều trị nhưng không tìm ra nguyên nhân, anh P.H.B., 32 tuổi, quê Cần Thơ đến Bệnh viện Đa khoa Quốc tế S.I.S Cần Thơ mong tìm ra căn nguyên bệnh của mình.

Theo Anh B tình trạng này kéo dài nhiều năm nhưng không thấy biểu hiện gì lạ nên anh B. không uống thuốc, vẫn có thể chơi thể thao bình thường. Tuy nhiên, khoảng 3 tháng nay, bệnh nhân cảm thấy đau đầu, đo huyết áp ghi nhận 220 mmHg. Nhập viện khoảng 8 ngày có điều trị thuốc huyết áp có giảm tuy nhiên vẫn còn cao, max #180mmHg.

Khi khám Ths Nguyễn Mạnh Cường ghi nhận huyết áp ở tay và chân có sự chênh lệch: huyết áp tay là 180/90mmHg, huyết áp chân 120/70mmHg (bình thường đo huyết áp ở tay, tuy nhiên một số trường hợp đo huyết áp ở chân sẽ phát hiện ra bệnh lý, nhất là bệnh nhân trẻ cần đo thêm ở chân để xem có dấu hiệu nào của tăng huyết áp thứ phát không). Các cận lâm sàng: siêu âm tim ghi nhận hẹp eo động mạch chủ nặng; chụp CT ngực và ghi nhận hẹp nặng động mạch chủ đoạn eo.

Sau khi tìm ra nguyên nhân gây tăng huyết áp là do hẹp eo động mạch chủ, bệnh nhân được can thiệp nội mạch đế đặt stent. Đây là ca can thiệp nội mạch đặt stent điều trị hẹp eo động mạch chủ đầu tiên tại miền Tây.

Bệnh nhân được chẩn đoán tăng huyết áp thứ phát do hẹp eo động mạch chủ bẩm sinh. Để điều trị có 2 phương pháp:

1. Mổ hở sửa chỗ hẹp eo động mạch chủ: bệnh nhân phải chịu một cuộc mổ lớn xâm lấn vào lồng ngực. Nguy cơ nhiễm trùng cao, thời gian nằm hậu phẫu và thời gian điều trị kéo dài.

2. Can thiệp nội mạch để nong và đặt stent động mạch chủ,  Lợi ích: thủ thuật nhẹ nhàng, có thể không cần gây mê, không cần mở lồng ngực, nguy cơ nhiễm trùng thấp, thời gian nằm viện ngắn, thời gian phục hồi sức khỏe ngắn hơn, thời gian trở lại cuộc sống thường ngày nhanh hơn so với mổ hở.

Theo TS BS Trần Chí Cường cái khó nhất trong lúc can thiệp và mổ hở là nguy cơ xuất huyết não do trong lúc nong bóng hoặc chỉnh sửa nơi hẹp tất cả lượng máu đi ra từ tim sẽ dồn hết lên não do đó đòi hỏi phải có những phương pháp phòng ngừa việc tăng lưu lượng máu quá mức lên não. Với sự hỗ trợ của Bs Lê Trọng Phi chuyên gia can thiệp tim bẩm sinh đến từ Đức ( cha đẻ của ngành can thiệp tim bẩm sinh ở Việt Nam ) với hơn 20 năm kinh nghiệm việc can thiệp những dạng bệnh lý này, ông cho biết đây là một trường hợp điển hình khá phức tạp nếu không điều trị BN có nguy cơ tử vong rất cao do không kiểm soát được huyết áp.

“Trong lúc thực hiện thủ thuật can thiệp chúng tôi đã dùng những phương pháp đặc biệt để trong lúc nong đoạn hẹp của động mạch chủ, máu không dồn lên não bằng cách kích thích tim đập vượt tần số làm cho các nhát bóp không hiệu quả” BS CKII Trần Chí Dũng cho biết .

Ekip can thiệp gồm GS. Lê Trọng Phi – một chuyên gia tim bẩm sinh của Đức, và cũng là một vị cha đẻ của ngành can thiệp tim bẩm sinh ở VN; phía bệnh viện Đa khoa Quốc tế S.I.S có BS.CK2 Trần Chí Dũng, ThS.BS Nguyễn Mạnh Cường.

Ngay sau thời gian can thiệp kéo dài 1 giờ 30 phút, huyết áp bệnh nhân đã trở về bình thường. Sau can thiệp bệnh nhân chỉ cần nằm nghỉ tại giường 12-24 giờ. Sau đó có thể đi lại vận động nhẹ nhàng. Bệnh nhân được xuất viện sau can thiệp 3 ngày kịp chuẩn bị đón tết với niềm vui khỏi bệnh.

Hình ảnh trước và sau nong, đặt stent động mạch chủ

BN được xuất viện sau 3 ngày can thiệp.

Qua trường hợp này, Ths Nguyễn Mạnh Cường khuyến cáo: khi phát hiện có dấu hiệu tăng huyết áp ở người trẻ hoặc tăng huyết áp không kiểm soát được bằng thuốc thì nên đi khám chuyên khoa để tầm soát và tìm các nguyên nhân tăng huyết áp có thể là hẹp động mạch thận hoặc hẹp động mạch chủ với phương tiện máy siêu âm và CT đa lát cắt tại Bệnh viện Đa Khoa Quốc Tế S.I.S chúng tôi có thể tầm soát khá dễ dàng và chính xác, đồng thời can thiệp nong đoạn hẹp để huyết BN trở về bình thường mà không cần phải uống thuốc.

BS Lê Trọng Phi cho biết thêm trong những năm gần đây với sự phát triển của khoa học kỹ thuật việc ứng dụng kỹ thuật can thiệp nội mạch vào điều trị can thiệp các bệnh lý tim bẩm sinh đã được áp dụng rộng rãi. VD: Can thiệp bít dù thông liên nhĩ, thông liên thất, còn ống động mạch, nong hẹp eo động mạch phổi, nong hẹp eo động mạch chủ…

Hẹp eo động mạch chủ là một bệnh cảnh xếp hàng thứ 6 trong nhóm bệnh tim bẩm sinh thường gặp như: thông liên nhĩ, thông liên thất, còn ống động mạch, hẹp van động mạch phổi, tứ chứng fallot…

Bệnh hẹp eo động mạch chủ là bệnh lý bẩm sinh, diễn tiến âm thầm và khó phát hiện. Ở người trưởng thành bệnh thường biểu hiện qua tình trạng huyết áp cao, khó kiểm soát. Một dấu hiệu cần chú ý khác đó là tình trạng huyết áp đo ở sẽ tay cao hơn huyết áp ở chân rất nhiều.

Bệnh sẽ để lại một số hậu quả: tăng huyết áp cao sẽ dẫn đến tai biến mạch máu não, suy tim, lớn tim, đau ngực, khó thở, vỡ động mạch chủ ngực.

Vấn đề tầm soát các nguyên nhân tăng huyết áp ở người trẻ là việc làm hết sức cần thiết để tìm ra căn nguyên của bệnh.

Đức Thịnh – Hồng Nhung

Tin tức gần đây